Hầu như tất cả các trường hợp tử vong từ các biến chứng liên quan đến mang thai hoặc sinh nở trên khắp thế giới mỗi ngày đều xảy ra ở các nước đang phát triển và hầu hết có thể ngăn chặn chúng bằng cách ngăn ngừa các biến chứng như chảy máu nhiều, nhiễm trùng và huyết áp cao, cũng như các bệnh như sốt rét, thiếu máu và vi rút gây suy giảm miễn dịch ở người (HIV)/hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (AIDS) trong thời kỳ mang thai và sau sinh.
Tỷ lệ tử vong sơ sinh chiếm 36% số ca tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi trên toàn thế giới. Những trường hợp tử vong này chủ yếu là do sinh non và nhẹ cân (31%), nhiễm trùng sơ sinh (26%), ngạt khi sinh (thiếu oxy khi sinh) và chấn thương khi sinh (23%).
Tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong do bất thường bẩm sinh (6,8%), các nguyên nhân chu sinh không lây nhiễm khác (5,7%), uốn ván (5%), tiêu chảy (2,6%).
Thiếu vitamin A cũng vẫn là một vấn đề sức khỏe cộng đồng ở phụ nữ và trẻ em, ảnh hưởng đến khoảng 190 triệu trẻ em trong độ tuổi mẫu giáo và 19 triệu phụ nữ mang thai, với gánh nặng cao nhất được Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đánh giá là ở khu vực Châu Phi.
Trong thời kỳ cho con bú, vitamin A rất quan trọng đối với sức khỏe và thị lực của người mẹ. Lượng vitamin A hấp thụ tốt cho các bà mẹ sau sinh là 850g retinol (RE) tương đương/ngày, điều này có thể khó đạt được thông qua chế độ ăn uống đơn thuần ở một số vùng.
Nguồn cung cấp vitamin A cho bà mẹ sau sinh
Nguồn thực phẩm cung cấp tiền vitamin A bao gồm các loại rau như cà rốt, bí ngô, đu đủ và dầu cọ đỏ; Thực phẩm động vật giàu vitamin A bao gồm các sản phẩm từ sữa (sữa nguyên chất, sữa chua, pho mát), gan, dầu cá và sữa mẹ.
Trẻ sơ sinh thường được sinh ra với lượng vitamin A dự trữ thấp. Sữa mẹ của người mẹ được nuôi dưỡng tốt rất giàu vitamin A và là nguồn tốt nhất cho trẻ. Vì vậy, các bà mẹ được khuyến cáo nên cho con bú hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu sau sinh.
Nồng độ vitamin A trong sữa mẹ cao nhất trong 21 ngày đầu tiên sau sinh, nghĩa là trong sữa non trong 4-6 ngày đầu và trong sữa mẹ chuyển tiếp trong 7-21 ngày tiếp theo. Sau đó, nồng độ vitamin A thường duy trì ổn định trong phần còn lại của thời kỳ cho con bú.
Ở những vùng thường xảy ra tình trạng thiếu vitamin A, người mẹ có thể sản xuất sữa mẹ với nồng độ vitamin A thấp hơn. Tuy nhiên, nếu người mẹ không thể đáp ứng nhu cầu vitamin A tăng lên trong thời gian cho con bú thông qua chế độ ăn uống, cơ thể người mẹ sẽ cố gắng bù đắp lượng vitamin A thấp trong sữa mẹ bằng cách sử dụng nguồn dự trữ vitamin A trong gan.
Vitamin A đóng vai trò quan trọng đối với thị lực, tăng trưởng và phát triển thể chất cũng như chức năng miễn dịch, và thiếu vitamin A làm tăng nguy cơ mắc bệnh quáng gà và các bệnh về mắt khác như khô mắt, đặc biệt là vào thời điểm có tỷ lệ bệnh truyền nhiễm cao và/hoặc trong các mùa khi nguồn thực phẩm giàu vitamin A khan hiếm.
Chế độ ăn của mẹ là yếu tố quan trọng quyết định nồng độ vitamin A trong sữa mẹ và tình trạng vitamin A của trẻ. Các chương trình như bổ sung sau sinh, đa dạng hóa thực phẩm và tăng cường vitamin A trong thực phẩm đã được sử dụng để cải thiện tình trạng vitamin A của phụ nữ và tăng hàm lượng vitamin A trong sữa mẹ.
Liều dùng vitamin A cho bà mẹ sau sinh
Vitamin A bổ sung hầu hết được hấp thụ tốt bởi phụ nữ sau sinh; Tuy nhiên, việc mẹ bổ sung liều cao (hơn 50.000 IU) có thể gặp các tác dụng phụ như buồn nôn, nhức đầu, sốt, nôn, tăng áp lực dịch não tủy, mờ mắt, buồn ngủ và thiếu phối hợp các cơ. Tuy nhiên, những triệu chứng này thường là tạm thời mà không có tác dụng phụ lâu dài.
Cách uống Vitamin A cho các bà mẹ sau sinh
Nên bổ sung Vitamin A sau khi sinh và uống lại 24 giờ sau khi uống viên đầu tiên.